Từ một nghệ thuật mang yếu tố dân gian, múa rối nước đã trở thành một nghệ thuật truyền thống, và là một sáng tạo đặc trưng của người Việt Nam. Hãy cùng tìm hiểu về lịch sử, đặc điểm và ý nghĩa của loại hình nghệ thuật này qua bài viết sau.
Theo các nhà nghiên cứu, múa rối nước đã ra đời chừng hơn 10 thế kỷ trước ở vùng châu thổ sông Hồng. Loại hình này thường diễn vào dịp lễ, hội làng, ngày vui, ngày Tết, dùng con rối diễn trò, diễn kịch trên mặt nước. Trò rối nước cũng được coi là nét văn hóa phi vật thể đặc sắc của dân tộc Việt Nam.
Chứng cứ bằng văn tự đầu tiên ghi chép về múa rối nước Việt Nam là bia tháp Sùng Thiện Diên Linh, dựng năm 1121, trong đó có đoạn viết: “Thả rùa vàng đội ba ngọn núi, trên mặt sóng dập dờn. Phơi mai vân để lộ bốn chân, dưới dòng sông lờ lững, liếc mắt nhìn lên bờ, cúi xét bầu trời lồng lộng. Trông vách dựng cheo leo, dạo nhạc thiều réo rắt. Cửa động mở ra thần tiên xuất hiện. Đều là dáng điệu thiên cung, há phải phong tư trần thế. Vươn tay nhỏ dâng khúc Hồi phong, nhăn mày thúy ngợi ca vận tốt. Chim quý từng đàn ca múa, thú lành từng đội xênh xang”.
Theo các nhà sử học, múa rối nước được hình thành và phát triển vào triều đại nhà Lý (1010 - 1225). Đây là giai đoạn có sự ổn định chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, và có nhiều hoạt động văn hóa nghệ thuật được tổ chức. Múa rối nước được coi là một thú chơi tao nhã của quý tộc và giới trí thức, cũng như một phương tiện giáo dục và giải trí của nhân dân.
Trải qua bao thế hệ, nghệ thuật múa rối nước được truyền từ đời này sang đời khác, dần dần trở thành một thú chơi quen thuộc của người dân Việt Nam trong các dịp lễ hội. Múa rối nước cũng được biểu diễn ở nhiều quốc gia trên thế giới, như Trung Quốc, Nhật Bản, Thái Lan, Pháp, Đức, Anh… và nhận được sự quan tâm và yêu mến của nhiều người.
Múa rối nước có những đặc điểm khác với múa rối thông thường: dùng mặt nước làm sân khấu (gọi là nhà rối hay thủy đình), phía sau có phông che (được gọi là tấm y môn) tạo sân khấu biểu diễn múa rối nước y như ban thờ lớn ở Đình, chùa của người Việt, xung quanh trang trí cờ, quạt, voi, lọng, cổng hàng mã… trên “sân khấu” là những con rối (được làm bằng gỗ) biểu diễn nhờ sự điều khiển của những người phía sau phông thông qua hệ thống sào, dây… .
Những con rối thường được làm bằng gỗ sung vì đặc tính nhẹ giúp con rối nổi trên mặt nước. Quá trình đục cốt, đẽo, gọt giũa, đánh bóng rồi trang trí đều được người nghệ nhân chú trọng bởi từng con rối - nhân vật đều có những sắc màu tính cách riêng biệt. Các con rối có thể biểu hiện các cử động như ngồi, đứng, chạy, nhảy, bơi… theo ý muốn của người điều khiển.
Trò rối nước là trò khéo lấy động tác làm ngôn ngữ diễn đạt, rối nước gắn bó với âm nhạc như nghệ thuật múa. Âm nhạc điều khiển tốc độ, giữ nhịp, dẫn dắt động tác, gây không khí với tiết tấu truyền thống giữ vai trò chủ đạo của trò rối nước. Nhạc cụ chính là các loại trong quan họ Bắc Ninh: trong cái (trống), kèn (sáo), phách (đánh bằng hai que gỗ), chuông (đánh bằng hai que sắt)…
Múa rối nước không chỉ là một loại hình nghệ thuật sân khấu dân gian mà còn là mộtmột biểu tượng văn hóa của người Việt Nam. Múa rối nước phản ánh đời sống, tâm hồn, tình cảm, niềm vui, nỗi buồn, ước mơ, khát vọng của nhân dân. Múa rối nước cũng thể hiện sự sáng tạo, khéo léo, tinh tế và hài hước của người nghệ sĩ. Múa rối nước là một nghệ thuật giao lưu, kết nối và lan tỏa giá trị văn hóa Việt Nam đến với bạn bè quốc tế .
Múa rối nước là một di sản văn hóa quý giá của dân tộc Việt Nam. Để bảo tồn và phát huy loại hình nghệ thuật này, chúng ta cần có sự quan tâm và đầu tư của nhà nước, cộng đồng và cá nhân. Chúng ta cũng cần có sự đổi mới, sáng tạo và phát triển theo xu thế hiện đại, nhưng không làm mất đi bản sắc truyền thống. Chúng ta cần trân trọng và tự hào về một nét văn hóa truyền thống độc đáo của người Việt Nam - múa rối nước.