Chèo có nhiều đặc điểm nổi bật như tính dân gian, linh hoạt, tương tác và sáng tạo. Cùng tìm hiểu về loại hình văn hóa nghệ thuật này trong bài viết sau!
Chèo là một loại hình nghệ thuật sân khấu cổ truyền của Việt Nam, phát triển mạnh ở phía bắc, đặc biệt là đồng bằng sông Hồng và lan tỏa đến khu vực Bắc Trung Bộ và Trung Du Miền Núi Bắc Bộ. Chèo có nguồn gốc từ các trò nhại, ca kịch dân gian từ thế kỷ 10, sau đó được biến tấu và phong phú hóa qua các thời kỳ lịch sử. Chèo mang tính quần chúng và được coi là loại hình sân khấu của hội hè, với đặc điểm sử dụng ngôn ngữ đa thanh, đa nghĩa kết hợp với cách nói ví von giàu tính tự sự, trữ tình. Chèo phản ánh đầy đủ mọi góc độ của bản sắc dân tộc Việt Nam: lạc quan, nhân ái, yêu cuộc sống yên lành, bình dị, nhưng tràn đầy tự hào dân tộc, kiên cường đuổi giặc ngoại xâm, bảo vệ tổ quốc.
Cũng chính vì nội dung tư tưởng lành mạnh đó mà trong chèo có đầy đủ các thể loại văn học: trữ tình, lãng mạn, anh hùng ca, sử thi, thơ ca giáo huấn… hơn hẳn các loại hình nghệ thuật khác như tuồng, cải lương, ca kịch… Từ năm 2021, Nghệ thuật chèo đồng bằng sông Hồng được lập hồ sơ đề nghị UNESCO ghi danh là di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.
Theo các tài liệu lịch sử và dân gian, chèo được hình thành từ thời nhà Đinh (thế kỷ 10), khi vua Đinh Tiên Hoàng trị vì. Kinh đô Hoa Lư (Ninh Bình) là đất tổ của sân khấu chèo, người sáng lập là bà Phạm Thị Trân, một vũ ca tài ba trong hoàng cung đã được nhà vua phong chức quan Ưu Bà chuyên truyền dạy nghề múa hát. Sau đó chèo phát triển rộng ra toàn lãnh thổ Đại Cồ Việt gồm khu vực châu thổ Bắc Bộ và các tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh ngày nay. Chèo bắt nguồn từ âm nhạc và múa dân gian, nhất là trò nhại từ thế kỷ 10. Qua thời gian, người Việt đã phát triển các tích truyện ngắn của chèo dựa trên các trò nhại này thành các vở diễn trọn vẹn dài hơn. Đến thế kỷ 14, sự phát triển của sân khấu Việt Nam có một mốc quan trọng là thời điểm một con hát quân đội Nguyên Mông đã bị bắt ở Việt Nam tên gọi Lý Nguyên Cát. Binh sĩ này vốn là một diễn viên nên đã được tha tội chết và sai dạy lối hát đó cho binh sĩ. Cát cho diễn vở Vương mẫu hiến đào để vua ngự lãm cùng các triều thần xem, Ai cũng cho là hay. Qua đó lan tỏa nghệ thuật Kinh kịch của Trung Quốc vào Việt Nam, tác động trực tiếp đến các loại hình sân khấu tuồng, chèo. Các loại vai diễn cũng ảnh hưởng theo sự kiện này như đán nương (đào), quan nhân (kép), châu tử (tướng), sửu nô (hề)… Vào thế kỷ 15, vua Lê Thánh Tông đã không cho phép biểu diễn chèo trong cung đình, do chịu ảnh hưởng của đạo Khổng. Chèo trở về với nông thôn, kịch bản lấy từ truyện viết bằng chữ Nôm.
Qua các thời kỳ lịch sử, chèo đã có những biến đổi và phát triển theo xu hướng thời đại. Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp và Mỹ, chèo đã trở thành công cụ tuyên truyền và giải trí cho nhân dân và chiến sĩ. Nhiều vở chèo mới ra đời, mang tính anh hùng ca, ca ngợi tinh thần yêu nước và hy sinh vì tổ quốc. Trong thời kỳ đổi mới, chèo cũng không ngừng sáng tạo và đổi mới, khai thác các đề tài hiện đại, phản ánh cuộc sống xã hội và những vấn đề nhức nhối của thời cuộc. Chèo cũng kết hợp với các loại hình nghệ thuật khác như ca múa nhạc, xiếc, kịch nói… để tạo ra những sản phẩm mới lạ và hấp dẫn.
Chèo có nhiều đặc điểm nổi bật so với các loại hình nghệ thuật sân khấu khác, trong đó có thể kể đến:
Chèo không chỉ là một loại hình nghệ thuật sân khấu mà còn là một phần của văn hóa và di sản của dân tộc Việt Nam. Việc chèo mang lại nhiều lợi ích cho con người, trong đó có thể kể đến:
Chèo mang lại nhiều lợi ích cho con người như giải trí, bảo tồn văn hóa và phát triển kỹ năng sống. Chèo là một phần không thể thiếu của di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại.
Hy vọng bài viết này đã cung cấp cho bạn những thông tin hữu ích về chèo.